Tin tức

Thành phố Hồ Chí Minh: Đưa logistics trở thành ngành dịch vụ mũi nhọn

Trong Đề án Phát triển ngành logistics, Thành phố Hồ Chí Minh xây dựng chiến lược phát triển logistics trở thành ngành dịch vụ mũi nhọn, chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong cơ cấu GRDP.

Theo Báo cáo Chỉ số Năng lực Cạnh tranh Logistics (LCI) cấp tỉnh của Việt Nam do Hiệp hội Doanh nghiệp Dịch vụ Logistics Việt Nam (VLA) công bố lần đầu tiên, Thành phố Hồ Chí Minh là địa phương đứng đầu cả nước về năng lực cạnh tranh logistics…

 

Đây được xem là cơ sở thúc đẩy các hoạt động sản xuất, kinh doanh, thương mại của thành phố, tạo động lực và mở rộng dư địa cho tăng trưởng kinh tế.

 

Chủ động tiên phong

Với vai trò trung tâm của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam nói riêng và cả nước nói chung, Thành phố Hồ Chí Minh là nơi sản xuất và tiêu dùng một lượng lớn hàng hóa.

 

Bên cạnh đó, Thành phố Hồ Chí Minh có lợi thế về vị trí địa lý khi nằm giữa các trục giao thông Bắc-Nam, Đông-Tây nên trở thành trung tâm lưu chuyển hàng hóa trong nước và xuất nhập khẩu cho các tỉnh phía Nam. Vì vậy, nhu cầu sử dụng, kết nối dịch vụ logistics trong nội thành Thành phố Hồ Chí Minh và giữa Thành phố Hồ Chí Minh với các địa phương khác cũng như quốc tế là rất cao.

 

Ông Nguyễn Công Luân, Phó Trưởng Phòng Quản lý Xuất Nhập khẩu, Sở Công Thương Thành phố Hồ Chí Minh, cho biết với những thuận lợi đặc thù về thương mại và vận tải quốc tế, Thành phố Hồ Chí Minh đã và đang có vị thế lý tưởng để trở thành trung tâm logistics của khu vực phía Nam và cả nước.

 

Thành phố Hồ Chí Minh hiện có 9.600 doanh nghiệp đăng ký ngành dịch vụ logistics, chiếm 36,7% số doanh nghiệp logistics cả nước. Thành phố cũng chiếm tỷ trọng 54% doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics chuyên nghiệp của Việt Nam với khoảng 2.700 doanh nghiệp. Đây là những doanh nghiệp hoạt động đa ngành trong lĩnh vực giao thông vận tải, hậu cần, logistics, qua đó giúp Thành phố Hồ Chí Minh duy trì vị thế là địa phương dẫn đầu về logistics trong khu vực và cả nước.

 

Ông Trần Chí Dũng, Trưởng Ban Công nghệ và Đổi mới Sáng tạo Hiệp hội Doanh nghiệp Dịch vụ Logistics Việt Nam, cho rằng hệ thống logistics bao gồm 5 yếu tố là: cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực, các nhà cung cấp dịch vụ logistics, các nhà sử dụng dịch vụ logistics và khung thể chế-chính sách.

 

Nhu cầu về logictics và số lượng doanh nghiệp tham gia cung ứng dịch vụ logistics tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày càng tăng theo đúng quy luật cung-cầu. Về hạ tầng, ngoài mạng lưới giao thông đường bộ, Thành phố Hồ Chí Minh còn có các cảng biển giữ vai trò đầu mối xuất nhập khẩu hàng hoá cho cả khu vực phía Nam; trong đó Cảng Cát Lái là cảng lớn nhất cả nước với công suất 6,4 triệu TEU/năm.

 

Sản lượng hàng hóa qua cảng Cát Lái hiện chiếm khoảng 85% tổng sản lượng hàng hóa qua các cảng phía Nam và 50% sản lượng hàng hóa qua cảng cả nước. Ngoài cảng Cát Lái, Thành phố Hồ Chí Minh còn có Cảng Container Quốc tế Việt Nam (VICT) – cảng container chuyên dụng đầu tiên của cả nước – đi vào hoạt động từ năm 1998 đến nay.

 

Đánh giá về hệ thống logistics Thành phố Hồ Chí Minh, ông Trần Chí Dũng phân tích về cơ bản, Thành phố Hồ Chí Minh chưa có cơ chế, chính sách riêng trong phát triển logistics nhưng lại là địa phương tiên phong ở một số khía cạnh liên quan.

 

Có thể kể đến như việc chấp thuận cho một số trường, cơ sở đào tạo đăng ký giảng dạy môn logistics từ thời điểm môn học này chưa có trong danh mục môn học trên cả nước. Thành phố Hồ Chí Minh cũng là địa phương đi đầu trong việc đề xuất Hiệp hội Doanh nghiệp Dịch vụ Logistics Việt Nam viết đề cương, lập đề án phát triển hệ thống logistics Thành phố Hồ Chí Minh từ khá sớm.

 

Thêm vào đó, trong danh mục các dự án ưu tiên kêu gọi đầu tư của Thành phố Hồ Chí Minh luôn có các hạng mục về phát triển cơ sở hạ tầng giao thông, vận tải liên thông, kết nối đường bộ, cảng biển, hàng không…

 

Hành động nhanh hơn

Mặc dù được đánh giá cao về năng lực cạnh tranh logistics so với các địa phương khác song thực tế, hệ thống logistics của Thành phố Hồ Chí Minh vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của thành phố nói riêng, khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam nói chung.

 

Ông Lê Huỳnh Minh Tú, Phó Giám đốc Sở Công Thương Thành phố Hồ Chí Minh, cho biết giao thông vận tải Thành phố Hồ Chí Minh gắn liền với các tỉnh, thành phố trong Vùng Kinh tế Trọng điểm phía Nam và được định hướng trở thành đầu mối giao thông kết nối khu vực Đông Nam Bộ với Tây Nam Bộ, với khu vực và quốc tế. Tuy nhiên, hiện nay hệ thống đường bộ, đặc biệt hệ thống đường vành đai 2, 3, 4 chưa hoàn chỉnh, thường tắc nghẽn các tuyến đường bộ đến cảng Cát Lái, ICD Trường Thọ…

 

Tuyến Bắc-Nam kết nối kém với cảng biển, cảng hàng không, sản lượng thấp, tiêu chuẩn kỹ thuật lạc hậu, thiếu vốn đầu tư nâng cấp, chuyển đổi. Sân bay Tân Sơn Nhất quá tải, các ga hàng không đã hết công suất, chưa phát triển theo mô hình ga cảng hàng không nối dài.

 

Theo Báo cáo Chỉ số Năng lực Cạnh tranh Logistics (LCI) cấp tỉnh của Việt Nam do Hiệp hội Doanh nghiệp Dịch vụ Logistics Việt Nam (VLA) công bố lần đầu tiên, Thành phố Hồ Chí Minh là địa phương đứng đầu cả nước về năng lực cạnh tranh logistics…

 

Đây được xem là cơ sở thúc đẩy các hoạt động sản xuất, kinh doanh, thương mại của thành phố, tạo động lực và mở rộng dư địa cho tăng trưởng kinh tế.

 

Chủ động tiên phong

Với vai trò trung tâm của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam nói riêng và cả nước nói chung, Thành phố Hồ Chí Minh là nơi sản xuất và tiêu dùng một lượng lớn hàng hóa.

 

Bên cạnh đó, Thành phố Hồ Chí Minh có lợi thế về vị trí địa lý khi nằm giữa các trục giao thông Bắc-Nam, Đông-Tây nên trở thành trung tâm lưu chuyển hàng hóa trong nước và xuất nhập khẩu cho các tỉnh phía Nam. Vì vậy, nhu cầu sử dụng, kết nối dịch vụ logistics trong nội thành Thành phố Hồ Chí Minh và giữa Thành phố Hồ Chí Minh với các địa phương khác cũng như quốc tế là rất cao.

 

Ông Nguyễn Công Luân, Phó Trưởng Phòng Quản lý Xuất Nhập khẩu, Sở Công Thương Thành phố Hồ Chí Minh, cho biết với những thuận lợi đặc thù về thương mại và vận tải quốc tế, Thành phố Hồ Chí Minh đã và đang có vị thế lý tưởng để trở thành trung tâm logistics của khu vực phía Nam và cả nước.

 

Thành phố Hồ Chí Minh hiện có 9.600 doanh nghiệp đăng ký ngành dịch vụ logistics, chiếm 36,7% số doanh nghiệp logistics cả nước. Thành phố cũng chiếm tỷ trọng 54% doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics chuyên nghiệp của Việt Nam với khoảng 2.700 doanh nghiệp. Đây là những doanh nghiệp hoạt động đa ngành trong lĩnh vực giao thông vận tải, hậu cần, logistics, qua đó giúp Thành phố Hồ Chí Minh duy trì vị thế là địa phương dẫn đầu về logistics trong khu vực và cả nước.

 

 

Ông Trần Chí Dũng, Trưởng Ban Công nghệ và Đổi mới Sáng tạo Hiệp hội Doanh nghiệp Dịch vụ Logistics Việt Nam, cho rằng hệ thống logistics bao gồm 5 yếu tố là: cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực, các nhà cung cấp dịch vụ logistics, các nhà sử dụng dịch vụ logistics và khung thể chế-chính sách.

 

Nhu cầu về logictics và số lượng doanh nghiệp tham gia cung ứng dịch vụ logistics tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày càng tăng theo đúng quy luật cung-cầu. Về hạ tầng, ngoài mạng lưới giao thông đường bộ, Thành phố Hồ Chí Minh còn có các cảng biển giữ vai trò đầu mối xuất nhập khẩu hàng hoá cho cả khu vực phía Nam; trong đó Cảng Cát Lái là cảng lớn nhất cả nước với công suất 6,4 triệu TEU/năm.

 

Sản lượng hàng hóa qua cảng Cát Lái hiện chiếm khoảng 85% tổng sản lượng hàng hóa qua các cảng phía Nam và 50% sản lượng hàng hóa qua cảng cả nước. Ngoài cảng Cát Lái, Thành phố Hồ Chí Minh còn có Cảng Container Quốc tế Việt Nam (VICT) – cảng container chuyên dụng đầu tiên của cả nước – đi vào hoạt động từ năm 1998 đến nay.

 

Đánh giá về hệ thống logistics Thành phố Hồ Chí Minh, ông Trần Chí Dũng phân tích về cơ bản, Thành phố Hồ Chí Minh chưa có cơ chế, chính sách riêng trong phát triển logistics nhưng lại là địa phương tiên phong ở một số khía cạnh liên quan.

 

Có thể kể đến như việc chấp thuận cho một số trường, cơ sở đào tạo đăng ký giảng dạy môn logistics từ thời điểm môn học này chưa có trong danh mục môn học trên cả nước. Thành phố Hồ Chí Minh cũng là địa phương đi đầu trong việc đề xuất Hiệp hội Doanh nghiệp Dịch vụ Logistics Việt Nam viết đề cương, lập đề án phát triển hệ thống logistics Thành phố Hồ Chí Minh từ khá sớm.

 

Thêm vào đó, trong danh mục các dự án ưu tiên kêu gọi đầu tư của Thành phố Hồ Chí Minh luôn có các hạng mục về phát triển cơ sở hạ tầng giao thông, vận tải liên thông, kết nối đường bộ, cảng biển, hàng không…

 

Hành động nhanh hơn

Mặc dù được đánh giá cao về năng lực cạnh tranh logistics so với các địa phương khác song thực tế, hệ thống logistics của Thành phố Hồ Chí Minh vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của thành phố nói riêng, khu vực kinh tế trọng điểm phía Nam nói chung.

 

Ông Lê Huỳnh Minh Tú, Phó Giám đốc Sở Công Thương Thành phố Hồ Chí Minh, cho biết giao thông vận tải Thành phố Hồ Chí Minh gắn liền với các tỉnh, thành phố trong Vùng Kinh tế Trọng điểm phía Nam và được định hướng trở thành đầu mối giao thông kết nối khu vực Đông Nam Bộ với Tây Nam Bộ, với khu vực và quốc tế. Tuy nhiên, hiện nay hệ thống đường bộ, đặc biệt hệ thống đường vành đai 2, 3, 4 chưa hoàn chỉnh, thường tắc nghẽn các tuyến đường bộ đến cảng Cát Lái, ICD Trường Thọ…

 

Tuyến Bắc-Nam kết nối kém với cảng biển, cảng hàng không, sản lượng thấp, tiêu chuẩn kỹ thuật lạc hậu, thiếu vốn đầu tư nâng cấp, chuyển đổi. Sân bay Tân Sơn Nhất quá tải, các ga hàng không đã hết công suất, chưa phát triển theo mô hình ga cảng hàng không nối dài.

 

 

Trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh hiện có 1.505 nhà kho, đa số đều có diện tích nhỏ, xu hướng kho thu hẹp và chuyển dịch sang các tỉnh lân cận. Thành phố Hồ Chí Minh chưa có trung tâm logistics đáp ứng đầy đủ tiêu chí theo Quyết định số 1012/QĐ-TTg ngày 3/7/2015 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển hệ thống trung tâm logistics trên địa bàn cả nước đến năm 2020, định hướng đến năm 2030.

 

Bà Đặng Minh Phương, Chủ tịch Hiệp hội Logistics Thành phố Hồ Chí Minh, nêu vấn đề mặc dù số lượng doanh nghiệp tham gia vào hoạt động logistics của Thành phố Hồ Chí Minh ngày càng nhiều nhưng đa số đều có quy mô vừa và nhỏ, cung cấp dịch vụ riêng lẻ, khó mở rộng quy mô theo hướng phục vụ dịch vụ theo chuỗi trọn gói.

 

Mặt khác, cơ sở hạ tầng logistics của thành phố được xem là nhỉnh hơn so với một số tỉnh thành khác nhưng chưa đồng bộ. Tốc độ phát triển hạ tầng chậm hơn nhiều so với tiềm năng, nhu cầu phát triển của ngành logistics. Trong khi các trung tâm logistics, hệ thống cảng cạn (ICD), trung tâm phân phối hiện có còn phân bố rời rạc, thiếu đồng bộ cũng là những nút thắt của hoạt động logistics, vận tải hàng hóa.

 

Theo bà Đặng Minh Phương, để cải thiện hoạt động logistics, cần đẩy mạnh hạ tầng kết nối thông qua quy hoạch các tuyến cao tốc, quốc lộ, hệ thống ICD, cụm cảng, bến thủy nội địa, các tuyến đường giao thông kết nối cảng với các khu công nghiệp. Bên cạnh đó, cần có chính sách kêu gọi và hỗ trợ đầu tư các trung tâm logistics đã được quy hoạch trên địa bàn (Long Bình, Cát Lái-Phú Hữu, Linh Trung, Tân Kiên, Củ Chi, Hiệp Phước, Khu Công nghệ Cao).

 

 

Trong Đề án Phát triển ngành logistics trên địa bàn đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, Thành phố Hồ Chí Minh xây dựng chiến lược phát triển logistics trở thành ngành dịch vụ mũi nhọn của thành phố, chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong cơ cấu GRDP; nâng cao vai trò đầu mối giao lưu hàng hóa trong nước và kết nối thị trường trong nước với thị trường quốc tế; góp phần giảm tỷ lệ chi phí logistics cả nước so với GDP quốc gia đến năm 2025 khoảng 10-15%.

 

Các chuyên gia cho rằng để đón đầu các cơ hội trong dịch chuyển chuỗi cung ứng, Thành phố Hồ Chí Minh cần hành động nhanh và tập trung hơn vào việc hoàn thiện hệ thống logistics, bao gồm: hạ tầng giao thông đường bộ, nạo vét các kênh rạch, luồng lạch ra vào cảng.

 

Ông Trần Chí Dũng nhấn mạnh Thành phố Hồ Chí Minh cần phải hành động nhanh hơn, mạnh hơn trong lĩnh vực logistics chứ không chỉ dừng lại ở việc xác định vai trò và xây dựng đề án mà sau nhiều năm vẫn chưa triển khai thực hiện được.

 

Đặc biệt, khi triển khai xây dựng mạng lưới trung tâm logistics, thành phố phải nghiên cứu kỹ và tối ưu hóa khả năng kết nối giữa các tuyến đường vận chuyển với hệ thống kho, bãi để đảm bảo lưu thông hàng hóa thuận lợi, tiết kiệm thời gian và chi phí cho doanh nghiệp.