Hiệu ứng Bullwhip là gì?
Hiệu ứng Bullwhip trong tiếng Anh gọi là: Bullwhip Effect.
Hiệu ứng Bullwhip được phát hiện lần đầu bởi tiến sĩ Forrester (1961), theo đó lượng sản phẩm được sản xuất bởi các công ty luôn cao gấp nhiều lần lượng nhu cầu thực tế của thị trường.
Qua các thống kê, tiến sĩ Forrester (1961) phát hiện ra rằng, lượng hàng hóa được sản xuất ra thường cao hơn so với nhu cầu thực tế, mức sai lệch cực đại có thể dao động lên tới 3-5 lần.
Hiện tượng này được Forrester đặt tên là hiệu ứng Bullwhip, còn gọi là hiệu ứng cái roi da hay hiệu ứng đuôi bò. Cách gọi này phỏng theo hình ảnh thực tế của chiếc roi da, chỉ một lượng dao động nhỏ ở gốc cây roi, sẽ gây ra lượng dao động lớn ở cuối chiếc roi.
Ví dụ
Trong việc phân tích nhu cầu cho tả lót dùng một lần Pamper, các quản trị viên tại P&G lưu tâm đến một hiện tượng lạ. Như mong đợi thì sản lượng bán lẻ của hệ thống là đồng đều, không có ngày nào hoặc tháng nào cụ thể mà nhu cầu cao hơn hoặc thấp hơn các ngày hoặc các tháng khác. Tuy nhiên, cấp quản trị nhận thấy rằng các đơn đặt hàng của nhà phân phối đặt hàng cho nhà cung ứng thì biến động nhiều. Điều này càng tăng cao khi dịch chuyển ngược trong chuỗi cung ứng và điều này được xem là hiệu ứng bullwhip.
Hình minh họa một chuỗi cung ứng bốn giai đoạn đơn giản: một nhà bán lẻ, một nhà bán sỉ, một nhà phân phối và một nhà máy. Nhà bán lẻ dự báo nhu cầu khách hàng và tiến hành đặt hàng cho nhà bán sỉ. Nhà bán sỉ nhận sản phẩm từ nhà phân phối, và nhà phân phối đặt hàng cho nhà máy.
Để hiểu được tác động của việc gia tăng sự biến động trong chuỗi cung ứng, chúng ta hãy xem xét giai đoạn hai trong ví dụ: Nhà bán sỉ.
Nhà bán sỉ nhận đơn đặt hàng từ nhà bán lẻ và tiến hành đặt hàng nhà cung ứng của ông, nhà phân phối. Để xác định số lượng đặt hàng, nhà bán sỉ phải dự báo nhu cầu nhà bán lẻ. Nếu nhà bán sỉ không biết số liệu nhu cầu khách hàng, ông phải sử dụng các đơn đặt hàng của nhà bán lẻ để thực hiện dự báo.
Vì tính biến động trong các đơn hàng mà nhà bán lẻ đặt hàng cho nhà bán sỉ thì cao hơn nhiều so với sự biến động về nhu cầu khách hàng, nhà bán sỉ chịu áp lực phải lưu trữ tồn kho nhiều hơn nhà bán lẻ hoặc duy trì khả năng cao hơn nhà bán lẻ để đáp ứng cùng mức phục vụ như nhà bán lẻ.
Phân tích này có thể được tiến hành đối với nhà phân phối cũng như nhà máy, và kết quả dẫn đến mức tồn kho cao hơn và vì thế chi phí cao hơn.
Vì vậy điều quan trọng là phải tìm ra các kỹ thuật và công cụ cho phép chúng ta kiểm soát hiệu ứng bullwhip, đó là để kiểm soát sự gia tăng tính biến động trong chuỗi cung ứng. Nhằm phục vụ cho mục đích này, trước hết chúng ta cần hiểu các nhân tố chính góp phần vào việc gia tăng sự biến động trong chuỗi cung ứng.
Các kiểm soát hiệu ứng bullwhip
1. Dự báo nhu cầu
Các kỹ thuật quản trị tồn kho truyền thống được thực hiện ở mỗi cấp độ trong chuỗi cung ứng dẫn đến hiệu ứng bullwhip. Để giải thích mối liên hệ giữa việc dự báo và hiệu ứng bullwhip, chúng ta cần xem lại các chiến lược kiểm soát tồn kho trong các chuỗi cung ứng. Chính sách được sử dụng nhiều nhất là chính sách tồn kho min-max. Với chính sách này, bất cứ khi nào vị trí tồn kho ở cơ sở thấp hơn một con số nào đó, xem như là điểm đặt hàng lại, cơ sở sẽ tiến hành đặt hàng để nâng mức tồn kho lên mức mục tiêu, gọi là đặt hàng đến mức.
Về cơ bản thì điểm đặt hàng lại được thiết lập bằng với nhu cầu trung bình trong suốt thời gian đáp ứng đơn hàng cộng với một bội số độ lệch chuẩn của nhu cầu trong suốt thời gian trên. Thông thường, nhà quản trị sử dụng kỹ thuật san bằng dự báo chuẩn để ước tính nhu cầu trung bình và sự biến động của nhu cầu. Một đặc điểm quan trọng của tất cả các kỹ thuật là khi ta quan sát càng nhiều dữ liệu thì chúng ta càng hiệu chỉnh nhiều về số trung bình và độ lệch chuẩn trong nhu cầu. Vì tồn kho bảo hiểm cũng như đặc hàng đến mức lệ thuộc nhiều vào các dự báo này, người sử dụng bắt buộc thay đổi số lượng đặt hàng và vì thế gia tăng sự biến động.
2. Thời gian đáp ứng đơn hàng
Dễ dàng nhận thấy rằng việc gia tăng sự biến động càng rõ nét, càng lớn khi gia tăng thời gian đáp ứng đơn hàng. Thời gian đáp ứng đơn hàng càng dài thì một sự thay đổi nhỏ trong việc ước tính độ biến động của nhu cầu cũng hàm chứa một sự thay đổi đáng kể trong tồn kho và mức đặt hàng lại, dẫn đến sự thay đổi lớn trong số lượng đặt hàng. Điều này dẫn đến sự gia tăng biến động.
3. Đặt hàng theo lô
Tác động của đặt hàng theo lô là hoàn toàn dễ hiểu. Nếu nhà bản lẻ sử dụng đặt hàng theo lô, xảy ra khi sử dụng chính sách tồn kho min –max, thì nhà bán lẻ sẽ thấy một đơn hàng lớn sau một thời gian không đặt hàng và được tiếp nối với một đơn hàng khác,… Vì vậy nhà bán sỉ sẽ thấy các thông tin sai lệch và sự biến động lớn trong các đơn hàng.
Người bán lẻ sẽ đặt hàng theo lô vì lý do khi chi phí vận chuyển là đáng kể, thì người bán lẻ có thể đặt hàng với số lượng mà họ nhận được chiết khấu vận chuyển (nghĩa là vận chuyển đủ trọng tải của xe). Điều này dẫn đến việc trong một số tuần thì nhà phân phối có thể đặt hàng số lượng lớn và một số tuần không tiến hành đặt hàng. Cuối cùng, hạn ngạch theo quý, theo năm hoặc sự tăng trưởng nhanh trong một số ngành làm xuất hiện các đơn đặt hàng lớn hơn.
4. Sự biến động giá
Sự biến động giá cũng có thể dẫn đến hiệu ứng Bullwhip. Nếu giá cả biến động , nhà bán lẻ thường cố gắng lưu trữ tồn kho khi giá cả thấp hơn. Điều này dễ nhận thấy bởi các hoạt động xúc tiến mua khi các doanh nghiệp thực hiện chương trình cổ động và chiết khấu theo số lượng ở một vài thời điểm mấu chốt trong năm.
5. Các đơn hàng “lạm phát”
Các đơn hàng lạm phát do các nhà bán lẻ đặt hàng trong thời kỳ thiếu hụt thường có khuynh hướng làm thổi phồng hiệu ứng Bullwhip. Các đơn đặt hàng như thế là thông thường khi nhà bán lẻ và nhà phân phối nghi ngờ rằng một sản phẩm nào đó sẽ bị thiếu hụt về cung ứng, và vì thế liệu trước việc nhận được một phần của số lượng đã đặt hàng. Khi giai đoạn thiếu hụt thì nhà bán lẻ trở lại các đơn hàng chuẩn, điều này dẫn đến sự méo mó và những sai lệch trong dự báo nhu cầu.
Sưu tầm